\"header\"/

Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa,
và Ngôi Lời là Thiên Chúa. (Ga 1:1)

SÁCH THỦ LÃNH
Từ chương 1 đến chương 10

10

CHƯƠNG 1

1 Sau khi ông Giô-suê từ trần, con cái Ít-ra-en đã thỉnh ý ĐỨC CHÚA rằng : \”Ai trong chúng con sẽ lên đương đầu với quân Ca-na-an trước tiên để giao tranh với chúng ?\” 2 ĐỨC CHÚA phán : \”Giu-đa sẽ lên : Này Ta đã trao đất ấy vào tay nó.\” 3 Giu-đa liền nói với Si-mê-ôn, anh mình, rằng : \”Mời anh cùng tôi lên phần đất tôi đã trúng thăm ; chúng ta cùng chiến đấu chống quân Ca-na-an ; tới lượt tôi, tôi sẽ cùng anh đi đến phần đất anh đã trúng thăm.\” Và Si-mê-ôn đã cùng đi với ông ta. 4 Vậy Giu-đa đi lên ; ĐỨC CHÚA đã trao quân Ca-na-an và quân Pơ-rít-di vào tay họ ; và tại Be-déc, họ đã đánh bại mười ngàn người của chúng. 5 Họ đã gặp A-đô-ni Be-déc tại Be-déc ; họ liền tấn công y, đánh tan quân Ca-na-an và quân Pơ-rít-di. 6 A-đô-ni Be-déc tháo chạy, nhưng họ đã đuổi theo bắt được y, và chặt ngón tay cái và ngón chân cái của y. 7 A-đô-ni Be-déc nói : \”Bảy mươi vua bị chặt ngón tay cái và ngón chân cái, đã ăn mót dưới gầm bàn của tôi. Tôi đã xử sự thế nào, thì Thiên Chúa cũng xử lại với tôi như vậy.\” Họ đưa y vào Giê-ru-sa-lem và y đã chết tại đó. 8 Con cái Giu-đa đã tấn công Giê-ru-sa-lem, chiếm lấy thành, dùng gươm giết và nổi lửa đốt thành.

9 Sau đó con cái Giu-đa đã xuống tấn công người Ca-na-an bấy giờ đang ở trên núi, ở vùng Ne-ghép và vùng Sơ-phê-la. 10 Giu-đa cũng tiến đánh quân Ca-na-an bấy giờ đang ở Khép-rôn, -tên của Khép-rôn trước kia là Kia-giát Ác-ba- và họ đã đánh bại Sê-sai, A-khi-man và Tan-mai. 11 Từ đấy họ tiến đánh dân cư thành Đơ-via -tên của Đơ-via trước kia là Kia-giát Xê-phe. 12 Ông Ca-lếp nói : \”Ai đánh và chiếm được Kia-giát Xê-phe, tôi sẽ gả Ác-xa con gái tôi cho người ấy.\” 13 Ót-ni-ên con ông Cơ-nát, em ông Ca-lếp, đã chiếm được thành ; và ông Ca-lếp đã gả Ác-xa con gái mình cho Ót-ni-ên. 14 Khi cô ta đến, Ót-ni-ên liền xúi cô xin cha một thửa ruộng. Cô xuống lừa, và ông Ca-lếp hỏi cô : \”Chuyện gì thế con ?\” 15 Cô thưa : \”Xin cha cho con một món quà : vì cha đã cho con đất Ne-ghép, thì xin cũng cho con cả suối nước nữa.\” Ông Ca-lếp đã cho cô suối trên suối dưới. 16 Con cái ông Kê-ni, nhạc phụ ông Mô-sê, đã từ Thành Chà Là cùng với con cái Giu-đa đi lên sa mạc Giu-đa, trong vùng Ne-ghép A-rát. Họ đã đi và đến ở với dân ấy. 17 Giu-đa đã đi với Si-mê-ôn anh mình. Họ tấn công quân Ca-na-an bấy giờ đang ở Xơ-phát và đã tru diệt chúng. Người ta đã gọi tên thành ấy là Khoóc-ma. 18 Rồi Giu-đa chiếm Ga-da và vùng lân cận, chiếm Át-cơ-lôn và vùng lân cận, chiếm Éc-rôn và vùng lân cận. 19 ĐỨC CHÚA phù trợ Giu-đa và ông đã chiếm giữ vùng núi ; nhưng ông không trục xuất được dân cư vùng đồng bằng, vì chúng có xe sắt. 20 Các ông đã cứ lời ông Mô-sê mà giao Khép-rôn cho ông Ca-lếp, và ông này đã đuổi ba người con của A-nác ra khỏi đó. 21 Còn những người Giơ-vút cư ngụ tại Giê-ru-sa-lem, thì con cái Ben-gia-min đã không đánh đuổi họ ; vì thế những người Giơ-vút vẫn ở với con cái Ben-gia-min tại Giê-ru-sa-lem cho tới ngày nay.

22 Nhà Giu-se cũng tiến lên Bết Ên và ĐỨC CHÚA ở với họ. 23 Nhà Giu-se đã cho người do thám Bết Ên -tên thành này trước kia là Lút. 24 Các thám tử gặp một người đàn ông từ trong thành đi ra, liền nói với người ấy : \”Chỉ cho chúng tôi lối vào thành ; chúng tôi sẽ xử khoan hồng với anh !\” 25 Người ấy chỉ cho họ lối vào thành, và họ đã dùng gươm tàn sát cả thành ; còn người ấy cùng với cả thị tộc thì họ để cho đi. 26 Người ấy ra đi đến đất người Khết, xây một thành và đặt tên là Lút. Đó là tên của thành ấy cho tới ngày nay.

27 Mơ-na-se không đánh thắng được Bết San và các vùng phụ thuộc, cũng như Ta-nác và các vùng phụ thuộc, cũng chẳng đánh thắng được dân cư thành Đo và các vùng phụ thuộc, dân cư thành Gíp-lơ-am và các vùng phụ thuộc, dân cư thành Mơ-ghít-đô và các vùng phụ thuộc. Người Ca-na-an quyết ở lại trong đất đó. 28 Nhưng khi Ít-ra-en trở nên hùng cường, thì bắt người Ca-na-an làm nô dịch cho mình, chứ không trục xuất được chúng. 29 Ép-ra-im không trục xuất được người Ca-na-an cư ngụ ở Ghe-de, và người Ca-na-an vẫn sống giữa họ ở Ghe-de. 30 Dơ-vu-lun không trục xuất được dân cư thành Kít-rôn và dân cư thành Na-ha-lôn ; người Ca-na-an vẫn sống giữa họ, nhưng phải làm nô dịch cho họ. 31 A-se không trục xuất được dân cư thành Ác-cô, dân cư thành Xi-đôn, Ác-láp, Ác-díp, Khen-ba, A-phích và Rơ-khốp. 32 Thế là người A-se cư ngụ giữa người Ca-na-an đang sống trên đất ấy, vì họ đã không trục xuất được chúng. 33 Náp-ta-li không trục xuất được dân cư thành Bết Se-mét và dân cư thành Bết A-nát, nên họ cư ngụ giữa người Ca-na-an đang sống trong đất ấy, nhưng dân cư thành Bết Se-mét và Bết A-nát đã phải làm nô dịch cho họ. 34 Người E-mô-ri đã dồn con cháu Đan lên vùng núi, không để cho họ xuống đồng bằng. 35 Người E-mô-ri quyết giữ vững Ha Khe-rét, Ai-gia-lôn và Sa-an-vim ; nhưng khi bàn tay nhà Giu-se đè nặng trên chúng, thì chúng đã phải làm nô dịch cho họ. 36 Ranh giới của người E-mô-ri chạy dài từ dốc Ác-ráp-bim, từ Núi Đá trở lên.

CHƯƠNG 2

1 Thần sứ của ĐỨC CHÚA từ Ghin-gan lên Bô-khim và nói : \”Ta đã đưa các ngươi lên từ Ai-cập và dẫn vào đất Ta đã thề ban cho tổ tiên các ngươi. Ta đã phán : Chẳng bao giờ Ta phá huỷ Giao Ước của Ta với các ngươi. 2 Còn các ngươi thì không được kết ước với dân cư trong xứ này ; phải triệt hạ các bàn thờ của chúng. Nhưng các ngươi đã không nghe lời Ta. Các ngươi đã làm gì thế ? 3 Vậy Ta bảo : Ta sẽ không đuổi chúng cho khuất mắt các ngươi, và chúng sẽ sống kè kè bên các ngươi ; các thần của chúng sẽ là cạm bẫy cho các ngươi.\” 4 Khi thần sứ của ĐỨC CHÚA nói những lời ấy cho toàn thể con cái Ít-ra-en, thì dân oà lên khóc. 5 Thế là người ta đặt tên cho nơi ấy là Bô-khim và họ đã tế lễ kính ĐỨC CHÚA tại đó.

6 Bấy giờ ông Giô-suê giải tán dân chúng, và con cái Ít-ra-en ai nấy về nơi mình đã trúng thăm làm gia nghiệp, để chiếm hữu đất đai. 7 Dân đã phục vụ ĐỨC CHÚA suốt thời ông Giô-suê và suốt thời các kỳ mục là những người sống lâu sau ông Giô-suê, và đã chứng kiến tất cả những công cuộc vĩ đại ĐỨC CHÚA đã thực hiện cho Ít-ra-en. 8 Ông Giô-suê, con ông Nun, tôi trung của ĐỨC CHÚA, từ trần, thọ một trăm mười tuổi. 9 Người ta chôn cất ông tại thửa đất ông đã nhận được làm gia nghiệp ở Tim-nát Khe-rét trong vùng núi Ép-ra-im, phía bắc núi Ga-át. 10 Khi đến lượt cả thế hệ ấy về sum họp với tổ tiên mình, thì xuất hiện một thế hệ kế tiếp không hề biết ĐỨC CHÚA và những công cuộc Người đã thực hiện cho Ít-ra-en.

11 Con cái Ít-ra-en đã làm điều dữ trái mắt ĐỨC CHÚA, và đã làm tôi các thần Ba-an. 12 Họ đã lìa bỏ ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của tổ tiên, Đấng đã đưa họ ra khỏi đất Ai-cập, và họ đã đi theo các thần ngoại lai trong số các thần của các dân chung quanh. Họ sụp lạy các thần ấy và chọc giận ĐỨC CHÚA. 13 Họ đã lìa bỏ ĐỨC CHÚA để làm tôi thần Ba-an và các nữ thần Át-tô-rét. 14 ĐỨC CHÚA nổi cơn thịnh nộ với Ít-ra-en và đã trao họ vào tay quân cướp cho chúng tha hồ bóc lột ; Người đã trao họ vào tay kẻ thù chung quanh, nên họ không thể đương đầu nổi với kẻ thù. 15 Cứ mỗi lần họ xuất trận là tay ĐỨC CHÚA giáng hoạ trên họ, như ĐỨC CHÚA đã phán và thề với họ. Họ lâm cảnh khốn cùng.

16 Bấy giờ ĐỨC CHÚA cho xuất hiện các thủ lãnh để giải thoát họ khỏi tay những kẻ cướp phá họ. 17 Nhưng rồi các thủ lãnh của họ, họ cũng chẳng nghe mà cứ đàng điếm với các thần ngoại lai và sụp lạy các thần đó. Họ vội từ bỏ con đường cha ông họ đã đi, là tuân giữ mệnh lệnh của ĐỨC CHÚA ; họ đã không noi gương các ngài. 18 Khi ĐỨC CHÚA cho xuất hiện các thủ lãnh để giúp họ, thì ĐỨC CHÚA ở với vị thủ lãnh và Người cứu họ khỏi tay quân thù bao lâu vị thủ lãnh còn sống, vì ĐỨC CHÚA động lòng trắc ẩn trước những tiếng than khóc của họ, khi họ bị đàn áp và ức hiếp. 19 Nhưng sau khi vị thủ lãnh qua đời thì họ lại ra hư đốn hơn cả cha ông họ. Họ chạy theo các thần ngoại lai để làm tôi và sụp lạy chúng, chứ không từ bỏ những hành vi và đường lối ngoan cố của họ.

20 ĐỨC CHÚA nổi cơn thịnh nộ với Ít-ra-en ; Người phán : \”Vì lũ dân này đã vi phạm giao ước Ta đã truyền cho cha ông chúng phải giữ, và chúng đã không nghe tiếng Ta, 21 nên trong số các dân mà Giô-suê còn để lại khi từ trần, Ta cũng sẽ không đuổi một dân nào cho khuất mắt chúng. 22 Ta sẽ dùng các dân ấy để thử thách Ít-ra-en, xem chúng có tuân giữ đường lối ĐỨC CHÚA như cha ông chúng đã tuân giữ hay không. 23 Vậy ĐỨC CHÚA đã để cho các dân ấy tiếp tục tồn tại mà không vội trục xuất chúng, cũng chẳng trao chúng vào tay ông Giô-suê.

CHƯƠNG 3

1 Đây là các dân ĐỨC CHÚA cho tồn tại, để dùng chúng mà thử thách tất cả những người Ít-ra-en đã không biết các cuộc chiến tại Ca-na-an là gì, 2 chỉ cốt cho các thế hệ con cái Ít-ra-en biết học việc binh đao, ít là cho những kẻ trước đây chưa biết. 3 Năm vương hầu Phi-li-tinh và tất cả các người Ca-na-an, người Xi-đôn, người Khi-vi ở trên vùng núi Li-băng, từ núi Ba-an Khéc-môn đến Cửa Ải Kha-mát. 4 Chúng còn đó để thử thách Ít-ra-en, xem họ có tuân giữ mệnh lệnh ĐỨC CHÚA đã dùng ông Mô-sê mà truyền cho cha ông họ hay không. 5 Vậy con cái Ít-ra-en đã sống giữa người Ca-na-an, người Khết, người E-mô-ri, người Pơ-rít-di, người Khi-vi và người Giơ-vút. 6 Và họ đã cưới con gái của chúng, cũng như gả con gái mình cho chúng, và họ đã làm tôi các thần của chúng.

7 Con cái Ít-ra-en đã làm điều dữ trái mắt ĐỨC CHÚA. Họ đã lìa bỏ ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của họ, và làm tôi các thần Ba-an và nữ thần A-sê-ra. 8 ĐỨC CHÚA nổi cơn thịnh nộ với Ít-ra-en và đã trao họ vào tay Cu-san Rít-a-tha-gim, vua A-ram Na-ha-ra-gim ; con cái Ít-ra-en đã làm tôi Cu-san Rít-a-tha-gim tám năm.

9 Con cái Ít-ra-en kêu lên ĐỨC CHÚA và ĐỨC CHÚA cho xuất hiện một vị cứu tinh là ông Ót-ni-ên, con ông Cơ-nát, em ông Ca-lếp, để cứu con cái Ít-ra-en ; ông Ót-ni-ên đã giải thoát họ. 10 Thần khí của ĐỨC CHÚA ở trên ông, và ông đã lãnh đạo Ít-ra-en. Ông xuất trận và ĐỨC CHÚA đã trao Cu-san Rít-a-tha-gim, vua A-ram, vào tay ông, và tay ông đè nặng lên Cu-san Rít-a-tha-gim. 11 Bấy giờ lãnh thổ được bình an bốn mươi năm. Sau đó ông Ót-ni-ên, con ông Cơ-nát, từ trần.

12 Con cái Ít-ra-en lại làm điều dữ trái mắt ĐỨC CHÚA, và ĐỨC CHÚA đã tăng cường sức mạnh cho Éc-lon, vua Mô-áp, chống Ít-ra-en, vì họ đã làm điều dữ trái mắt ĐỨC CHÚA. 13 Ông đã phối hợp với con cái Am-mon và A-ma-lếch, rồi tiến quân, đánh bại Ít-ra-en và chiếm lấy Thành Chà Là của họ. 14 Con cái Ít-ra-en phải làm tôi Éc-lon, vua Mô-áp, mười tám năm.

15 Bấy giờ con cái Ít-ra-en kêu lên ĐỨC CHÚA, ĐỨC CHÚA liền cho xuất hiện một vị cứu tinh là ông Ê-hút, con ông Ghê-ra, người Ben-gia-min, một người thuận tay trái. Vậy con cái Ít-ra-en nhờ ông mang cống lễ nộp cho Éc-lon, vua Mô-áp. 16 Ông Ê-hút làm cho mình một chiếc gươm hai lưỡi, dài một gô-mét, và cột dưới áo bên hông phải. 17 Ông mang cống lễ nộp cho Éc-lon, vua Mô-áp ; Éc-lon là một người béo phị. 18 Sau khi đã trao cống lễ, ông cho đám người mang cống lễ đi ra. 19 Còn chính ông, người đã viếng các tượng đá ở Ghin-gan trở về, thì nói : \”Thưa ngài, tôi có một điều bí mật muốn thưa với ngài.\” Vua nói : \”Im lặng !\” Tất cả mọi người túc trực bên vua đều ra ngoài. 20 Bấy giờ ông Ê-hút tới gần vua, lúc ấy đang ngồi ở phòng mát phía trên dành riêng cho vua, và ông Ê-hút nói : \”Tôi có một lời của Thiên Chúa phải nói cho ngài.\” Vua liền bỏ ghế đứng lên. 21 Ông Ê-hút thò tay trái, rút chiếc gươm từ hông phải, thọc vào bụng vua 22 lút cán, mỡ bám chặt lưỡi gươm -vì ông Ê-hút không rút gươm khỏi bụng vua- và lưỡi gươm lòi ra đằng mông. 23 Ông Ê-hút qua hành lang mà đi ra, sau khi đã đóng các cửa phòng trên và khoá lại.

24 Ông vừa đi ra thì các đầy tớ vua đi vào. Họ thấy các cửa phòng trên vẫn khoá thì nói : \”Hẳn là vua đang mắc việc cần trong phòng sau.\” 25 Họ đợi hoài mà không thấy mở cửa phòng trên ; nên sau cùng họ lấy chìa khoá mở phòng ra, thì kìa tôn chủ của họ nằm chết sóng sượt dưới đất.

26 Phần ông Ê-hút đã tẩu thoát, lúc họ còn đang chờ. Ông đi qua các tượng đá mà trốn chạy về hướng Ha Xơ-i-ra. 27 Vừa tới nơi, ông liền rúc tù và vang khắp núi Ép-ra-im. Con cái Ít-ra-en cùng với ông từ núi tràn xuống ; chính ông đi tiên phong. 28 Ông bảo họ : \”Hãy theo tôi, vì ĐỨC CHÚA đã trao vào tay anh em kẻ thù của anh em là người Mô-áp.\” Họ đi theo ông, chiếm giữ các lối qua sông Gio-đan, không để lọt một người Mô-áp nào. 29 Thời kỳ ấy họ hạ được khoảng mười ngàn người Mô-áp, tất cả những kẻ cường tráng và dũng cảm, không sót một tên. 30 Ngày hôm ấy, Mô-áp đã bị bàn tay Ít-ra-en hạ nhục, và lãnh thổ được bình an tám mươi năm.

31 Sau ông là ông Sam-ga, con ông A-nát, ông đã dùng gậy thúc bò đánh giết sáu trăm người Phi-li-tinh. Ông cũng là một vị cứu tinh của Ít-ra-en.

CHƯƠNG 4

1 Con cái Ít-ra-en lại làm điều dữ trái mắt ĐỨC CHÚA sau khi ông Ê-hút từ trần, 2 nên ĐỨC CHÚA trao họ vào tay Gia-vin, vua Ca-na-an, trị vì tại Kha-xo. Tướng chỉ huy quân đội của ông là Xi-xơ-ra, cư ngụ ở Kha-rô-sét Ha Gô-gim.

3 Con cái Ít-ra-en kêu lên ĐỨC CHÚA, vì ông Gia-vin có đến chín trăm xe sắt, và ông đã đàn áp con cái Ít-ra-en một cách tàn bạo suốt hai mươi năm trường.

4 Bà Đơ-vô-ra, một nữ ngôn sứ, vợ ông Láp-pi-đốt, thời ấy làm thủ lãnh xét xử Ít-ra-en. 5 Bà ngồi xử dưới Cây Chà Là Đơ-vô-ra, giữa Ra-ma và Bết Ên, trên núi Ép-ra-im, và con cái Ít-ra-en đến với bà để bà xét xử cho. 6 Bà sai người mời ông Ba-rắc, con ông A-vi-nô-am, từ Ke-đét thuộc Náp-ta-li tới, và nói với ông : \”ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của Ít-ra-en, lại không nói với ông thế này sao ? Hãy đi chiêu mộ trong vùng núi Ta-bo lấy mười ngàn người trong số con cái Náp-ta-li và trong số con cái Dơ-vu-lun để đi với ngươi. 7 Ta sẽ dụ tướng Xi-xơ-ra, chỉ huy quân đội vua Gia-vin tiến về phía ngươi, bên suối Ki-sôn, cùng với chiến xa và quân binh của nó, và Ta sẽ trao nó vào tay ngươi.\” 8 Ông Ba-rắc nói với bà : \”Nếu bà đi với tôi thì tôi đi, nếu bà không đi với tôi thì tôi không đi.\” 9 Bà trả lời : \”Chắc chắn tôi sẽ đi với ông. Có điều là trong chuyến đi này, vinh dự không thuộc về ông, vì ĐỨC CHÚA sẽ trao Xi-xơ-ra vào tay một người đàn bà.\” Bà Đơ-vô-ra chỗi dậy đi với ông Ba-rắc đến Ke-đét. 10 Ông Ba-rắc triệu tập Dơ-vu-lun và Náp-ta-li tiến về Ke-đét. Mười ngàn người theo chân ông, cả bà Đơ-vô-ra cũng đi với ông.

11 Ông Khe-ve, người Kê-ni, đã tách khỏi Ca-in, khỏi con cái ông Khô-váp, nhạc phụ ông Mô-sê, và đã dựng lều bên cây sồi tại Xa-an-na-gim, gần Ke-đét. 12 Người ta báo tin cho Xi-xơ-ra rằng : \”Ông Ba-rắc, con ông A-vi-nô-am, đã lên núi Ta-bo\”. 13 Tướng Xi-xơ-ra liền tập trung tất cả các chiến xa, chín trăm xe sắt và toàn bộ lực lượng dưới quyền ông, đưa từ Kha-rô-sét Ha Gô-gim đến suối Ki-sôn. 14 Bấy giờ bà Đơ-vô-ra nói với ông Ba-rắc : \”Đứng lên ! Vì đây là ngày ĐỨC CHÚA trao Xi-xơ-ra vào tay ông. ĐỨC CHÚA lại không xuất trận trước mặt ông sao ?\” Ông Ba-rắc từ núi Ta-bo đi xuống với mười ngàn quân theo sau. 15 ĐỨC CHÚA dùng gươm của ông Ba-rắc đánh Xi-xơ-ra cùng với chiến xa và toàn thể doanh trại của ông này, khiến tất cả phải tán loạn trước mặt ông Ba-rắc. Xi-xơ-ra tụt khỏi xe và chạy bộ mà trốn. 16 Ông Ba-rắc truy kích đoàn xe và quân binh cho đến Kha-rô-sét Ha Gô-gim. Tất cả quân binh của Xi-xơ-ra đều ngã gục dưới lưỡi gươm của ông Ba-rắc, không sót một tên.

17 Xi-xơ-ra chạy bộ trốn về phía lều bà Gia-ên, vợ ông Khe-ve, người Kê-ni, vì lúc ấy đang có hoà bình giữa Gia-vin, vua Kha-xo, với nhà Khe-ve, người Kê-ni. 18 Bà Gia-ên ra đón Xi-xơ-ra, và nói với ông : \”Thưa ngài, xin dừng lại, xin dừng lại nơi đây, đừng sợ !\” Ông dừng lại, đi theo bà vào lều ; bà lấy tấm thảm phủ lên ông. 19 Ông nói với bà : \”Cho tôi xin chút nước uống, vì tôi khát quá.\” Bà liền mở vò sữa, cho ông uống, rồi lại phủ kín ông. 20 Ông nói với bà : \”Xin bà đứng ở cửa lều, hễ ai đến hỏi có người nào ở đây không, thì bà nói : \’Không.\’\” 21 Nhưng bà Gia-ên, vợ ông Khe-ve, lấy cái cọc lều, tay cầm búa, lặng lẽ đến bên Xi-xơ-ra, đóng cọc vào màng tang ông, xuyên xuống đất, đang lúc ông ngủ say vì mệt. Thế là ông chết. 22 Đang lúc ấy, ông Ba-rắc truy nã Xi-xơ-ra vừa tới, thì bà Gia-ên ra đón ông và nói : \”Lại đây, tôi cho ông xem người ông đang tìm.\” Ông đi theo bà, thì này, Xi-xơ-ra nằm chết với cái cọc xuyên màng tang.

23 Hồi đó Thiên Chúa hạ nhục Gia-vin, vua Ca-na-an, trước mặt con cái Ít-ra-en. 24 Bàn tay con cái Ít-ra-en ngày càng đè nặng trên Gia-vin, vua Ca-na-an, cho đến khi họ tiễu trừ được Gia-vin, vua Ca-na-an.

CHƯƠNG 5

1 Ngày hôm ấy bà Đơ-vô-ra và ông Ba-rắc, con ông A-vi-nô-am, hát rằng :

2          \”Trong Ít-ra-en thuở chiến binh xoã tóc xung phong,
            thuở toàn dân tình nguyện lên đường,
            các bạn ơi, nào chúc tụng ĐỨC CHÚA !

3          Nghe đây, hỡi các vua ! Hãy lắng tai, này các thủ lãnh !
            Tôi sẽ hát lên mừng ĐỨC CHÚA,
            sẽ đàn ca kính Người là Thiên Chúa của Ít-ra-en.

4          Thân lạy ĐỨC CHÚA, khi Ngài ra khỏi Xê-ia,
            khi Ngài từ ruộng đồng Ê-đôm xuất phát,
            thì trái đất chuyển rung, các tầng trời tan chảy,
            mây cũng tan chảy thành mưa.

5          Núi đồi chấn động trước nhan ĐỨC CHÚA,
            Xi-nai cũng chấn động trước nhan Người
            là Thiên Chúa của Ít-ra-en.

6          Thời Sam-ga, con ông A-nát,
            thời Gia-ên, còn đâu những đoàn khách lữ hành !
            Những kẻ xưa kia đi trên quan lộ
            nay lần mò theo những lối quanh co.

7          Trong Ít-ra-en không còn thủ lãnh,
            không còn nữa cho tới khi bà đứng lên, hỡi bà Đơ-vô-ra
            bà đứng lên, hỡi mẹ hiền trong Ít-ra-en !

8          Khi người ta chọn những thần mới,
            bấy giờ chiến tranh đến ngay trước cửa,
            khiên mộc chẳng thấy, gươm giáo cũng không
            trong tay bốn mươi ngàn quân Ít-ra-en.

9          Lòng tôi ngưỡng mộ các nhà chỉ huy Ít-ra-en,
            những kẻ trong dân tình nguyện lên đường.
            Các bạn ơi, nào chúc tụng ĐỨC CHÚA !

10         Hỡi những ai cỡi lừa trắng,
            hỡi những kẻ ngồi thảm hoa,
            hỡi khách bộ hành, hát lên đi !

11         Những người chia nhau chiến lợi phẩm bên bồn nước,
            hãy cất tiếng ca ngợi hồng ân của ĐỨC CHÚA,
            những hồng ân Người ban cho thủ lãnh Ít-ra-en,
            bấy giờ dân của ĐỨC CHÚA ùa xuống các cửa.

12         Phấn khởi lên ! Phấn khởi lên nào ! Đơ-vô-ra hỡi !
            Phấn khởi lên ! Phấn khởi lên nào ! Hát một bài ca !
            Đứng lên ! Hỡi Ba-rắc !
            Bỏ tù kẻ bỏ tù ông ! Hỡi con của A-vi-nô-am !

13         Bấy giờ Ít-ra-en xuống cửa vì chính nghĩa của mình,
            dân của ĐỨC CHÚA đã xuống như những vị anh hùng.

14         Các lãnh tụ Ép-ra-im ở trong thung lũng,
            trong hàng ngũ theo ông, có Ben-gia-min.
            Các vị chỉ huy xuất thân từ Ma-khia,
            từ Dơ-vu-lun, những người nắm côn trượng.

15         Các lãnh tụ Ít-xa-kha theo bà Đơ-vô-ra.
            Náp-ta-li trung thành với Ba-rắc,
            chạy theo vết chân ông trong thung lũng.
            Trong các thị tộc của Rưu-vên,
            bàn bạc thì thật là sôi nổi !

16         \’Sao bạn cứ ở lì trong hốc đá,
            mải nghe tiếng sáo bên đàn chiên ?\’
            Trong các thị tộc của Rưu-vên,
            bàn bạc thì thật là sôi nổi !

17         Ga-la-át ở lại bên kia sông Gio-đan,
            còn Đan, sao cứ sống trên tàu bè ?
            A-se thì định cư miền duyên hải,
            trong các hải cảng, vẫn cứ nhởn nhơ !

18         Dơ-vu-lun, dân coi nhẹ cái chết,
            cùng với Náp-ta-li, trên điểm cao chiến trường.

19         Các vua đã tới, đã giao tranh,
            các vua Ca-na-an đã giao tranh
            tại Ta-nác, bên dòng suối Mơ-ghít-đô.
            Chúng đã không cướp được bạc làm chiến lợi phẩm.

20         Từ trời cao, tinh tú đã giao tranh,
            từ trên quỹ đạo, tinh tú chống lại Xi-xơ-ra.

21         Dòng suối Ki-sôn đã cuốn trôi chúng,
            dòng suối ngàn xưa, suối Ki-sôn.
            Dũng cảm tiến lên, hồn ta hỡi !

22         Bấy giờ vó ngựa vang rền trên mặt đất,
            đoàn thiên lý mã phi nhanh, phi thật nhanh.

23         \’Hãy nguyền rủa Mê-rốt -thần sứ ĐỨC CHÚA nói -,
            nguyền rủa, nguyền rủa các dân cư của nó.
            Vì chúng đã không đến yểm trợ ĐỨC CHÚA,
            yểm trợ ĐỨC CHÚA với các bậc anh hùng.

24         Phúc thay bà Gia-ên, phu nhân ông Khe-ve, người Kê-ni,
            hơn các phụ nữ,
            hơn các phụ nữ trong lều trại, bà thật là có phúc.

25         Y xin nước, bà cho sữa.
            Bà dâng sữa béo trong chén quý của hàng thượng lưu.

26         Rồi tay trái cầm lấy chiếc cọc,
            còn tay phải nắm búa công nhân,
            đánh Xi-xơ-ra, đập cho bể đầu,
            và đâm thủng màng tang.

27         Dưới chân bà, y ngã quỵ, té nhào, nằm sóng sượt,
            dưới chân bà, y ngã quỵ, té nhào ;
            ngã quỵ nơi nào, té nhào nơi ấy, nằm bất động.

28         Qua cửa sổ, một bà khác nghiêng mình kêu la,
            đó là mẹ của Xi-xơ-ra, nói qua song cửa :
            \’Sao xe của con tôi mãi không về ?
            Sao đoàn xe trận của con tôi về chậm thế ?\’

29         Công chúa khôn ngoan nhất của bà đã trả lời,
            và bà cứ nhẩm đi nhắc lại :

30         \’Chắc họ đã gặp may, và đang chia nhau chiến lợi phẩm :
            một hai nàng cho mỗi chiến binh,
            và nhiễu điều làm chiến lợi phẩm cho Xi-xơ-ra.
            Một hai tấm nhiễu điều thêu sặc sỡ,
             choàng lên cổ của người toàn thắng.\’

31         Lạy ĐỨC CHÚA ! Mọi kẻ thù của Ngài
            đều tiêu vong như thế !
            Còn những ai yêu mến Ngài,
            xin cho họ rạng rỡ như mặt trời hừng đông.\”

Và lãnh thổ bình an bốn mươi năm.

CHƯƠNG 6

1 Con cái Ít-ra-en đã làm điều dữ trái mắt ĐỨC CHÚA, nên ĐỨC CHÚA đã trao họ vào tay người Ma-đi-an trong bảy năm. 2 Tay người Ma-đi-an đè nặng trên Ít-ra-en. Để tránh mặt người Ma-đi-an, con cái Ít-ra-en đã thiết lập những khu an toàn trong các vùng núi, những hang động hốc đá. 3 Hễ Ít-ra-en gieo giống thì người Ma-đi-an, người A-ma-lếch và người Phương Đông cũng lên ; chúng lên chống lại Ít-ra-en. 4 Chúng đóng trại bên cạnh họ và tàn phá hoa màu, đất đai cho đến sát Ga-da, không để sót lại vật gì trong Ít-ra-en, dù là gia súc hay bò lừa cũng vậy. 5 Vì chúng lên cùng với đàn vật và lều trại của chúng, tiến vào nhiều vô kể như châu chấu ; chúng và lạc đà của chúng đông không đếm nổi. Chúng tràn vào tàn phá xứ sở. 6 Như vậy người Ít-ra-en hoàn toàn kiệt quệ vì người Ma-đi-an. Và con cái Ít-ra-en đã kêu lên ĐỨC CHÚA.

7 Khi con cái Ít-ra-en kêu lên ĐỨC CHÚA về người Ma-đi-an, 8 thì ĐỨC CHÚA đã sai một vị ngôn sứ đến với con cái Ít-ra-en. Ông nói với họ : \”ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của Ít-ra-en phán thế này : Chính Ta đã đưa các ngươi lên khỏi Ai-cập, đã kéo các ngươi ra khỏi nhà nô lệ, 9 đã giải thoát các ngươi khỏi tay Ai-cập, khỏi tay mọi kẻ áp bức các ngươi, và đã đuổi chúng cho khuất mắt các ngươi, đã ban cho các ngươi đất đai của chúng. 10 Và Ta đã phán với các ngươi : Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của các ngươi. Các ngươi không được kính sợ các thần của người E-mô-ri, khi các ngươi cư ngụ trên đất của chúng. Nhưng các ngươi đã không nghe tiếng Ta.\”

11 Thần sứ của ĐỨC CHÚA đến và ngồi dưới cây tùng ở Óp-ra. Cây này là của ông Giô-át, thuộc gia đình A-vi-e-de. Con ông là Ghít-ôn bấy giờ đang đập lúa trong bồn đạp nho để tránh mặt người Ma-đi-an. 12 Thần sứ ĐỨC CHÚA hiện ra với ông và nói : \”Chào chiến sĩ can trường ! ĐỨC CHÚA ở với ông.\” 13 Ông Ghít-ôn đáp : \”Ôi, thưa Ngài, nếu ĐỨC CHÚA ở với chúng tôi, thì sao chúng tôi đến nông nỗi này ? Đâu cả rồi những kỳ công mà cha ông đã kể lại cho chúng tôi nghe, rằng : chẳng phải ĐỨC CHÚA đã đưa chúng ta lên khỏi Ai-cập sao ? Thế mà bây giờ ĐỨC CHÚA đã bỏ rơi chúng tôi, trao chúng tôi vào tay người Ma-đi-an.\”

14 Bấy giờ ĐỨC CHÚA quay lại nhìn ông và nói : \”Hãy mạnh bạo lên đường cứu Ít-ra-en khỏi tay quân Ma-đi-an. Không phải chính Ta sai ngươi sao ?\” 15 Nhưng ông đáp : \”Ôi, thưa Ngài, con lấy gì mà cứu Ít-ra-en ? Này dòng họ con thấp kém nhất trong chi tộc Mơ-na-se, mà con lại nhỏ nhất trong nhà cha con.\” 16 ĐỨC CHÚA phán với ông : \”Ta sẽ ở với ngươi, và ngươi sẽ đánh quân Ma-đi-an như đánh có một người.\” 17 Ông thưa : \”Nếu Ngài thương con thì xin cho con một dấu chứng tỏ Ngài đang nói với con. 18 Xin Ngài đừng rời khỏi đây cho tới khi con trở lại, mang theo của lễ đặt trước nhan Ngài.\” Người phán : \”Ta sẽ ở lại cho tới khi ngươi trở về.\”

19 Ông Ghít-ôn đi bắt một con dê non làm thịt, và lấy hai thùng bột làm mấy chiếc bánh không men. Thịt thì ông để trong một cái rổ, còn nước cốt thì đựng trong một cái thố. Rồi ông mang đến cho Người ở dưới cây tùng. Khi ông đến gần, 20 thì Thần sứ Thiên Chúa nói với ông : \”Hãy lấy thịt và bánh không men đặt trên tảng đá này và rưới nước cốt lên.\” Ông đã làm như thế.

21 Thần sứ của ĐỨC CHÚA giơ đầu gậy đang cầm trong tay đụng vào thịt và bánh không men, lửa liền từ tảng đá bốc lên, đốt cháy hết thịt cùng bánh không men. Thần sứ ĐỨC CHÚA biến khỏi mắt ông. 22 Ông Ghít-ôn thấy đó chính là Thần sứ ĐỨC CHÚA. Ông Ghít-ôn nói : \”Chết tôi rồi, lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng của tôi, vì tôi đã thấy Thần sứ ĐỨC CHÚA nhãn tiền !\” 23 Nhưng ĐỨC CHÚA phán với ông : \”Bình an cho ngươi ! Đừng sợ : ngươi không chết đâu.\” 24 Tại đó ông Ghít-ôn xây một bàn thờ kính ĐỨC CHÚA, và ông gọi nơi ấy là ĐỨC CHÚA – Bình an. Cho đến ngày nay, bàn thờ ấy vẫn còn tại Óp-ra, đất của gia đình A-vi-e-de.

25 Một đêm kia ĐỨC CHÚA phán bảo ông : \”Hãy lấy con bò mộng của cha ngươi, con bò bảy tuổi, rồi phá huỷ bàn thờ Ba-an của cha ngươi và chặt đứt cây cột thần bên cạnh. 26 Ngươi sẽ xây bàn thờ kính ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa ngươi, trên đỉnh của nơi kiên cố này, sắp xếp sao cho gọn ghẽ. Ngươi sẽ lấy con bò và dâng làm lễ toàn thiêu với gỗ cây cột thần ngươi đã chặt.\” 27 Vậy ông Ghít-ôn mang theo mười người đầy tớ và làm như ĐỨC CHÚA đã nói với ông. Tuy nhiên, vì sợ người nhà của cha mình và những người trong thành, ông không dám làm ban ngày, nên đã làm ban đêm. 28 Sáng hôm sau, khi những người trong thành thức dậy, thì kìa bàn thờ Ba-an đã bị triệt hạ, cây cột thần cạnh đó đã bị chặt, và con bò mộng thứ hai đã được dâng làm lễ toàn thiêu trên bàn thờ mới xây. 29 Họ nói với nhau : \”Ai đã làm chuyện này thế ?\” Rồi họ điều tra và tìm hiểu, thì ra là ông Ghít-ôn, con ông Giô-át, đã làm chuyện đó. 30 Dân thành liền nói với ông Giô-át : \”Đưa con ông ra đây ! Nó phải chết, vì nó đã triệt hạ bàn thờ Ba-an và đã chặt đứt cây cột thần bên cạnh.\” 31 Ông Giô-át nói với tất cả mọi người đứng trước mặt ông : \”Các anh bênh quyền lợi của Ba-an ư ? Hay là các anh tính cứu thần đó ? Kẻ nào bênh quyền lợi Ba-an sẽ phải chết trước khi trời rạng sáng. Nếu Ba-an là thần thì Ba-an cứ tự biện hộ. Ghít-ôn đã phá bàn thờ của Ba-an đó.\” 32 Ngày hôm ấy, người ta gọi ông Ghít-ôn là Giơ-rúp-ba-an, mà rằng : \”Xin Ba-an đối phó với hắn, vì hắn đã triệt hạ bàn thờ của người.\”

33 Tất cả các người Ma-đi-an, người A-ma-lếch và người Phương Đông đều nhất tề tập hợp ; họ băng qua sông và đóng trại tại đồng bằng Gít-rơ-en. 34 Ông Ghít-ôn được đầy thần khí của ĐỨC CHÚA ; ông rúc tù và, và người A-vi-e-de quy tụ lại sau lưng ông. 35 Ông sai sứ giả kêu gọi mọi người trong chi tộc Mơ-na-se, và họ quy tụ lại sau lưng ông ; ông sai sứ giả kêu gọi mọi người trong chi tộc A-se, Dơ-vu-lun và Náp-ta-li, họ cũng đều tiến lên đón ông.

36 Ông Ghít-ôn thưa với Thiên Chúa : \”Nếu đúng là Ngài sẽ dùng tay con để cứu Ít-ra-en như Ngài đã phán, 37 thì này đây con đặt một mớ lông cừu trong sân lúa : nếu chỉ có sương trên lông cừu mà thôi, còn tất cả mặt đất đều khô, thì con biết Ngài sẽ dùng tay con để cứu Ít-ra-en như Ngài đã phán.\” 38 Và đã xảy ra như vậy. Sáng hôm sau ông dậy sớm, bóp mớ lông cừu, vắt cho sương chảy ra đầy một chén nước. 39 Ông Ghít-ôn lại thưa với Thiên Chúa : \”Xin Ngài đừng thịnh nộ với con, để con được nói một lần nữa. Xin cho con được trắc nghiệm bằng lông cừu một lần nữa thôi : chỉ có lông cừu là khô, còn tất cả mặt đất đều đẫm sương.\” 40 Đêm ấy Thiên Chúa đã làm như vậy. Chỉ có lông cừu là khô, còn tất cả mặt đất đều đẫm sương.

CHƯƠNG 7

1 Ông Giơ-rúp-ba-an, tức Ghít-ôn, cũng như toàn dân đang ở với ông, thức dậy thật sớm, và ông đóng trại gần Ên Kha-rốt ; còn trại quân Ma-đi-an thì nằm ở phía bắc trại ông, sát đồi Mô-re, trong đồng bằng. 2 ĐỨC CHÚA phán bảo ông : \”Đám dân ở với ngươi quá đông ; Ta không trao quân Ma-đi-an vào tay chúng được, kẻo Ít-ra-en lại tự phụ phạm đến Ta, khi cho rằng \’Chính tay tôi đã cứu tôi.\’ 3 Vậy ngươi hãy công bố cho dân nghe : \’Ai sợ hãi và run khiếp thì hãy về đi !\’\” Và ông Ghít-ôn đã thử họ : hai mươi ngàn người trong dân rút lui, còn lại mười ngàn.

4 ĐỨC CHÚA phán với ông Ghít-ôn : \”Dân này vẫn còn đông. Hãy bảo chúng xuống gần nước, ở đó Ta sẽ thử chúng. Kẻ nào Ta nói với ngươi \’ người này sẽ đi với ngươi \’ thì kẻ đó sẽ đi với ngươi. Còn tất cả những ai Ta nói với ngươi \’người này không đi với ngươi\’, kẻ đó sẽ không được đi.\” 5 Vậy ông Ghít-ôn đem đám dân ấy đến gần nước, và ĐỨC CHÚA phán với ông Ghít-ôn : \”Tất cả những ai thè lưỡi tớp nước như chó, ngươi hãy để riêng ra, tất cả những ai quỳ xuống mà uống cũng vậy.\” 6 Số người dùng tay đưa nước lên miệng mà tớp là ba trăm. Tất cả số dân còn lại đều quỳ xuống mà uống nước. 7 Bấy giờ ĐỨC CHÚA phán với ông Ghít-ôn : \”Với ba trăm người đã tớp nước, Ta sẽ cứu các ngươi, và sẽ trao quân Ma-đi-an vào tay ngươi. Còn tất cả những người khác thì hãy rút lui, ai về nhà nấy.\” 8 Người ta giữ lại vò lương thực của đám dân, cùng với các tù và. Sau đó, ông Ghít-ôn cho tất cả con cái Ít-ra-en trở về, ai nấy về lều mình, chỉ giữ lại ba trăm người. Doanh trại của người Ma-đi-an nằm phía dưới trại của ông, trong đồng bằng.

9 Đêm ấy ĐỨC CHÚA phán với ông : \”Đứng lên ! Đi xuống doanh trại, vì Ta sẽ trao nó vào tay ngươi. 10 Nhưng nếu ngươi sợ không dám xuống, thì hãy đi xuống trại với Pu-ra, đầy tớ ngươi. 11 Ngươi sẽ nghe ngóng xem chúng nói gì ; sau đó tay ngươi sẽ ra cứng rắn, và ngươi sẽ xuống đánh trại.\” Vậy chính ông đã cùng với Pu-ra, đầy tớ ông, xuống tới đầu tiền đồn của trại.

12 Quân Ma-đi-an, A-ma-lếch và toàn quân Phương Đông nằm đầy đồng bằng, nhiều vô kể như châu chấu, và số lạc đà của chúng không đếm nổi, như cát trên bờ biển. 13 Ông Ghít-ôn tới nơi, thì này một tên đang kể cho đồng đội một giấc chiêm bao. Hắn nói : \”Đây là giấc chiêm bao tôi đã nằm mơ : một tấm bánh lúa mạch lăn trong trại Ma-đi-an, tới một chiếc lều, đụng vào lều thì nó ngã xuống, cuốn chỏng gọng cái lều lên, thế là cái lều đổ.\” 14 Người đồng đội hoạ theo và nói : \”Đây chỉ có thể là chiếc gươm của Ghít-ôn, con Giô-át, người Ít-ra-en. Thiên Chúa đã trao người Ma-đi-an và cả doanh trại vào tay ông ta.\” 15 Khi nghe kể giấc chiêm bao và lời giải thích, ông Ghít-ôn sấp mình xuống, đoạn trở về trại Ít-ra-en và nói : \”Đứng lên ! Vì ĐỨC CHÚA đã trao vào tay anh em doanh trại Ma-đi-an.\”

16 Bấy giờ ông chia ba trăm người thành ba cánh quân, trao vào tay mọi người tù và, vò rỗng có đuốc bên trong. 17 Ông bảo họ : \”Hãy nhìn và làm theo tôi. Khi tới đầu trại, tôi làm gì thì các anh cứ làm theo ! 18 Tôi sẽ rúc tù và cùng một lúc với tất cả những người đi với tôi ; bấy giờ các anh cũng rúc tù và khắp quanh trại và cùng hô : Vì ĐỨC CHÚA ! Vì Ghít-ôn !\”

19 Ông Ghít-ôn cùng với một trăm người theo ông đi tới đầu trại vào đầu canh hai, lúc vừa thay người canh ; họ rúc tù và, đồng thời đập bể những chiếc vò đang cầm trong tay. 20 Bấy giờ cả ba cánh quân đều rúc tù và, đập bể vò ; tay trái nắm chắc đuốc, tay phải cầm tù và rúc lên, rồi họ cùng hô : \”Vì ĐỨC CHÚA, vì Ghít-ôn, vung kiếm lên !\” 21 Chung quanh trại, ai nấy đứng yên tại chỗ. Cả trại tán loạn, la ó và chạy trốn. 22 Trong lúc ba trăm người rúc tù và thì ĐỨC CHÚA làm cho mỗi người trong khắp trại quay gươm giết bạn mình. Cả doanh trại đều trốn chạy về phía Xơ-rê-ra cho đến Bết Ha Sít-ta, bên bờ suối A-vên Mơ-khô-la, đối diện với Táp-bát.

23 Bấy giờ từ Náp-ta-li, A-se và toàn thể Mơ-na-se, các người Ít-ra-en họp nhau lại và rượt đuổi quân Ma-đi-an. 24 Ông Ghít-ôn sai sứ giả đi kêu gọi khắp vùng núi Ép-ra-im : \”Hãy xuống đón đầu quân Ma-đi-an, chiếm cứ các nguồn nước của chúng, cho đến Bết Ba-ra và sông Gio-đan.\” Tất cả các người Ép-ra-im đều họp lại chiếm lấy các nguồn nước cho đến Bết Ba-ra và sông Gio-đan. 25 Họ bắt được hai tướng của Ma-đi-an là Ô-rếp và Dơ-ếp ; họ giết Ô-rếp tại tảng đá Ô-rếp, còn Dơ-ếp thì giết tại bồn ép nho Dơ-ếp. Họ còn rượt theo quân Ma-đi-an và mang thủ cấp của Ô-rếp và Dơ-ếp từ bên kia sông Gio-đan về cho ông Ghít-ôn.

CHƯƠNG 8

1 Những người Ép-ra-im nói với ông : \”Ông đối xử với chúng tôi như vậy nghĩa là thế nào ? Ông đã không thèm gọi chúng tôi, khi ông lên đường đánh quân Ma-đi-an.\” Họ đã công kích ông dữ dội. 2 Nhưng ông nói với họ : \”Việc tôi đã làm sánh sao được với các anh ? Thứ mà Ép-ra-im ăn mót, lại không tốt hơn cả mùa trái của A-vi-e-de sao ? 3 Thiên Chúa đã trao vào tay các anh các thủ lãnh Ma-đi-an là Ô-rếp và Dơ-ếp, thì tôi có thể làm gì sánh được với các anh ?\” Nghe ông nói thế, họ mới nguôi giận.

4 Tới sông Gio-đan, ông Ghít-ôn sang sông cùng với ba trăm người theo ông, rất mệt mỏi nhưng vẫn truy lùng quân địch. 5 Ông nói với các người Xúc-cốt : \”Làm ơn cho đám người theo tôi mấy tấm bánh, vì họ đã mệt mỏi rồi, mà tôi thì còn phải truy lùng De-vác và Xan-mun-na, vua Ma-đi-an.\” 6 Nhưng các thủ lãnh Xúc-cốt trả lời : \”Số mạng của De-vác và Xan-mun-na nay đã nằm gọn trong tay ông rồi sao, mà chúng tôi phải cấp bánh cho quân đội của ông ?\” 7 Ông Ghít-ôn đáp : \”Đã vậy thì một khi ĐỨC CHÚA trao De-vác và Xan-mun-na vào tay ta rồi, ta sẽ lấy gai rừng và cây ké mà xé xác các ngươi !\” 8 Từ đấy, ông đi lên Pơ-nu-ên, và lại nói với người ta như vậy, nhưng những người Pơ-nu-ên trả lời y như những người Xúc-cốt. 9 Ông cũng nói với người Pơ-nu-ên rằng : \”Khi ta trở về bình an vô sự, ta sẽ triệt hạ tháp này.\”

10 De-vác và Xan-mun-na lúc ấy đang ở Các-co cùng với đạo quân của họ, chừng mười lăm ngàn người, đó là số còn lại trong toàn bộ doanh trại con cái Phương Đông. Vì mười hai ngàn mạng biết tuốt gươm đã gục ngã. 11 Ông Ghít-ôn tiến lên theo con đường của dân du mục, ở phía đông Nô-vác và Gióc-bô-ha, và đã tấn công trại khi trại cứ tưởng là an toàn. 12 De-vác và Xan-mun-na chạy trốn, nhưng ông đã đuổi kịp và bắt được cả hai vua Ma-đi-an là De-vác và Xan-mun-na, gây khiếp đảm cho toàn bộ doanh trại.

13 Sau trận chiến, ông Ghít-ôn, con ông Giô-át trở về qua ngả đường lên Khe-rét. 14 Ông bắt một thiếu niên thuộc dân Xúc-cốt và tra hỏi nó. Nó viết cho ông tên các thủ lãnh Xúc-cốt, và các kỳ mục trong dân là bảy mươi bảy người. 15 Vậy ông đến với người Xúc-cốt và nói : \”Đây là De-vác và Xa-mun-na ! Vì chúng, các ngươi đã đay nghiến ta mà rằng : \’Số mạng của De-vác và Xan-mun-na nay đã nằm gọn trong tay ông rồi sao, mà chúng tôi phải cấp bánh cho những người mệt mỏi của ông ?\’\” 16 Ông bắt các kỳ mục trong thành, lấy gai rừng và cây ké mà dạy cho những người Xúc-cốt một bài học. 17 Tháp Pơ-nu-ên, ông cũng triệt hạ, và tàn sát cả những người trong thành. 18 Ông nói với De-vác và Xan-mun-na : \”Những kẻ các ngươi đã tàn sát ở Ta-bo là người thế nào ?\” Chúng thưa : \”Ông thế nào, họ cũng vậy ; người nào cũng có vẻ hoàng tử.\” 19 Ông nói : \”Họ là anh em cùng mẹ với ta đó. Thề có ĐỨC CHÚA hằng sống ! Giả như các ngươi để họ sống, thì ta chẳng sát hại các ngươi đâu !\” 20 Rồi ông bảo người con cả của ông Gie-the : \”Đứng lên ! Giết chúng đi !\” Nhưng chàng thiếu niên sợ không dám tuốt gươm, vì cậu còn trẻ. 21 De-vác và Xan-mun-na liền nói : \”Vậy thì chính nhà ngươi đứng lên giết chúng ta đi, vì anh hùng đâu có sợ chết !\” Ông Ghít-ôn đứng lên hạ sát De-vác và Xan-mun-na, rồi tháo lấy những chiếc vòng đeo cổ các con lạc đà của chúng.

22 Người Ít-ra-en nói với ông Ghít-ôn : \”Xin ông cai trị chúng tôi, cả ông cũng như con cháu ông, vì ông đã giải thoát chúng tôi khỏi tay quân Ma-đi-an.\” 23 Ông Ghít-ôn trả lời : \”Chính tôi sẽ không cai trị, mà con tôi cũng không cai trị anh em, nhưng ĐỨC CHÚA sẽ cai trị anh em.\” 24 Ông Ghít-ôn nói với họ : \”Tôi xin anh em một điều là mỗi người cho tôi một cái nhẫn trong số chiến lợi phẩm của mình.\” Sở dĩ như vậy là vì những người bại trận là dân Ít-ma-ên, nên chúng mang nhẫn vàng. 25 Những người ấy đáp : \”Hẳn là chúng tôi sẽ tặng ông rồi.\” Họ trải chiếc áo choàng ra, và mỗi người bỏ vào đấy một chiếc nhẫn đã chiếm được. 26 Trọng lượng số nhẫn vàng ông đã xin được là mười bảy ký vàng, không kể các vòng khuyên, các hoa tai và những chiếc áo điều các vua Ma-đi-an vẫn mặc, và không kể các vòng đeo cổ các con lạc đà của chúng. 27 Ông Ghít-ôn lấy số vàng đó làm một tượng ê-phốt và đặt trong thành của ông tại Óp-ra ; và toàn thể Ít-ra-en đã đàng điếm với nó, nên nó hoá cái bẫy cho ông Ghít-ôn và nhà ông.

28 Ma-đi-an bị hạ nhục trước mặt con cái Ít-ra-en ; chúng không còn ngẩng đầu lên được nữa. Dưới thời ông Ghít-ôn, lãnh thổ được bình an bốn mươi năm. 29 Ông Giơ-rúp-ba-an, con ông Giô-át, lui về sống cảnh điền viên. 30 Ông Ghít-ôn sinh được bảy mươi người con, vì ông có nhiều vợ. 31 Ông có người tỳ thiếp ở Si-khem, bà cũng sinh cho ông một con trai ; và ông đặt tên cho nó là A-vi-me-léc. 32 Ông Ghít-ôn, con ông Giô-át, qua đời sau khi hưởng tuổi già hạnh phúc, và được chôn cất trong phần mộ của ông Giô-át, thân phụ ông, tại Óp-ra của dòng họ A-vi-e-de. Ít-ra-en lại suy sụp

33 Sau khi ông Ghít-ôn qua đời, con cái Ít-ra-en lại đàng điếm với các Ba-an, và tôn Ba-an Bơ-rít làm thiên chúa của mình. 34 Con cái Ít-ra-en không nhớ ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa của mình, Đấng đã giải thoát họ khỏi tay mọi thù địch chung quanh. 35 Họ cũng chẳng đối xử nhân nghĩa với nhà ông Giơ-rúp-ba-an, tức Ghít-ôn, mà đền đáp tất cả những điều tốt lành ông đã làm cho Ít-ra-en.

CHƯƠNG 9

1 A-vi-me-léc, con ông Giơ-rúp-ba-an, đến Si-khem gặp bà con bên ngoại, và nói với họ, cùng cả gia tộc bên ngoại rằng : 2 \”Xin bà con hỏi các thân hào Si-khem xem : điều nào tốt cho các vị ? Để cho bảy mươi người, tức là tất cả các con ông Giơ-rúp-ba-an cai trị các vị, hay là để một người cai trị các vị mà thôi ? Xin các vị nhớ cho rằng tôi là anh em ruột thịt của các vị.\” 3 Bà con bên ngoại dùng chính những lời đó nói về A-vi-me-léc cho toàn thể thân hào Si-khem nghe, và lòng họ nghiêng về A-vi-me-léc, vì họ nói : \”Ông ấy là bà con của chúng ta.\” 4 Vậy họ trao cho ông bảy mươi se-ken bạc, lấy của đền Ba-an Bơ-rít, A-vi-me-léc dùng tiền ấy thuê những đứa vô lại cùng bọn du đãng, và chúng theo ông. 5 Thế là ông đến nhà cha mình tại Óp-ra, hạ sát các anh em, tức là bảy mươi người con của ông Giơ-rúp-ba-an, trên cùng một tảng đá ; chỉ sót có Giô-tham, con út của ông Giơ-rúp-ba-an, vì anh ta lẩn trốn được. 6 Bấy giờ tất cả thân hào Si-khem cùng toàn dân Bết Mi-lô họp lại, kéo đến tôn A-vi-me-léc lên làm vua, bên cạnh cây sồi trước bia đá ở Si-khem.

7 Khi người ta báo tin ấy cho ông Giô-tham, ông liền lên đứng trên đỉnh núi Gơ-ri-dim, cất tiếng gọi và nói với những người kia rằng : \”Hỡi các thân hào Si-khem ! Hãy nghe tôi đây, thì Thiên Chúa cũng sẽ nghe các người.

8 Cây cối đã lên đường đi xức dầu phong một vua cai trị chúng. Chúng nói với cây ô-liu : \’Hãy làm vua cai trị chúng tôi !\’

9 Nhưng cây ô-liu nói với chúng : \’Chẳng lẽ tôi lại từ bỏ dầu của tôi là thứ đã từng làm cho thần minh và người đời được tôn trọng, mà đi đu đưa trên cây cối hay sao ?\’

10 Cây cối liền nói với cây vả : \’Hãy đến làm vua cai trị chúng tôi !\’

11 Nhưng cây vả bảo chúng : \’Chẳng lẽ tôi lại từ bỏ vị ngọt và trái ngon của tôi mà đi đu đưa trên cây cối hay sao ?\’

12 Bấy giờ cây cối nói với cây nho : \’Hãy đến làm vua cai trị chúng tôi !\’

13 Nhưng cây nho bảo chúng : \’Chẳng lẽ tôi lại từ bỏ rượu của tôi là thứ đã từng làm cho thần minh và người đời phấn khởi, mà đi đu đưa trên cây cối hay sao ?\’

14 Tất cả cây cối liền nói với bụi gai : \’Hãy đến làm vua cai trị chúng tôi !\’

15 Bụi gai trả lời cây cối : \’Nếu quả thật các ngươi xức dầu phong ta làm vua cai trị các ngươi, thì hãy tới nương náu dưới bóng ta ; bằng không, lửa sẽ bốc ra từ bụi gai và sẽ thiêu rụi các cây bá hương Li-băng !\’

16 Các người có đối xử thành thật và trọn đạo khi tôn A-vi-me-léc lên làm vua không ? Các người có đối xử tốt với ông Giơ-rúp-ba-an và nhà ông ấy không ? Có đối xử với ông xứng với công lao của ông không ? 17 Cha tôi đã chiến đấu vì các người, đã liều mạng để giải thoát các người khỏi tay quân Ma-đi-an. 18 Thế mà ngày nay các người lại phản bội nhà cha tôi, tàn sát con cái ông, tất cả bảy mươi người trên cùng một tảng đá, rồi đặt đứa con người tỳ thiếp của ông là A-vi-me-léc lên làm vua cai trị các thân hào Si-khem, vì y là bà con của các người. 19 Vậy, nếu ngày hôm nay các người đã đối xử thành thật và trọn đạo với ông Giơ-rúp-ba-an và nhà ông, thì cứ việc vui vì A-vi-me-léc, và mong sao y cũng được vui vì các người. 20 Bằng không, thì xin cho một ngọn lửa phát ra từ A-vi-me-léc để thiêu huỷ các thân hào Si-khem cùng với dân Bết Mi-lô, và xin cho một ngọn lửa phát ra từ các thân hào Si-khem và dân Bết Mi-lô để thiêu huỷ A-vi-me-léc nữa !\” 21 Rồi ông Giô-tham chạy về phía Bơ-e và trú ngụ tại đây, vì sợ A-vi-me-léc, người anh em của ông.

22 A-vi-me-léc cầm quyền cai trị Ít-ra-en ba năm. 23 Rồi Thiên Chúa gây một thần khí bất hoà giữa A-vi-me-léc và các thân hào Si-khem, khiến các thân hào Si-khem phản lại A-vi-me-léc. 24 Như vậy là để báo phục tội giết bảy mươi người con ông Giơ-rúp-ba-an, và để làm cho máu họ đổ xuống trên A-vi-me-léc, người anh em đã giết họ, và đổ xuống trên các thân hào Si-khem, những người đã tiếp tay với y, để y giết anh em mình. 25 Các thân hào Si-khem đã đặt những ổ mai phục trên các ngọn núi, để cướp bóc tất cả những người đi ngang qua đó. Người ta báo tin ấy cho A-vi-me-léc biết.

26 Bấy giờ ông Ga-an, con ông E-vét, cùng đi với anh em ông, và họ qua Si-khem ; các thân hào Si-khem tín nhiệm ông. 27 Họ ra vườn hái nho, rồi đạp ép và tổ chức vui chơi. Họ vào đền các thần minh của họ, ăn uống và nguyền rủa A-vi-me-léc. 28 Ông Ga-an, con ông E-vét nói : \”A-vi-me-léc là ai, và Si-khem là ai mà chúng ta làm tôi nó ? Nó chẳng phải là con Giơ-rúp-ba-an, và đại diện của nó chẳng phải là Dơ-vun sao ? Các người hãy làm tôi con cái Kha-mo, cha của Si-khem ; còn chúng tôi, việc gì chúng tôi phải làm tôi nó ? 29 Ai sẽ trao dân này vào tay tôi, để tôi loại trừ A-vi-me-léc ? Và tôi nói với nó : \’Hãy tăng thêm quân của mi và ra đây !\’\”

30 Ông Dơ-vun, tổng trấn thành, nghe những lời ông Ga-an, con ông E-vét nói, thì nổi giận. 31 Ông lập mưu sai sứ đến nói với A-vi-me-léc rằng : \” Này , Ga -an, con của E-vét, và anh em y đã đến Si-khem và đang khích động thành này chống lại ông. 32 Vậy, đang đêm ông hãy trỗi dậy, và cùng với quân lính của ông mai phục ngoài đồng. 33 Rồi sáng sớm, lúc rạng đông, hãy mau lẹ tấn công thành. Khi y và đám người cùng đi với y ra đón ông, thì gặp chúng đâu ông hãy đánh đó.\”

34 Đang đêm, A-vi-me-léc cùng với quân lính của ông chỗi dậy, chia thành bốn nhóm mai phục gần Si-khem. 35 Ông Ga-an, con ông E-vét, đi ra và dừng lại ở lối vào cổng thành. A-vi-me-léc cùng với quân lính của ông từ chỗ mai phục chỗi dậy. 36 Ông Ga-an thấy đám dân thì nói với ông Dơ-vun : \”Đây là đám dân từ các đỉnh núi xuống.\” Nhưng ông Dơ-vun nói : \”Đó là bóng núi mà ông lại trông ra như người ta.\” 37 Ông Ga-an còn lên tiếng nói : \”Đây là những người từ rốn đất mà xuống, còn nhóm kia thì từ con đường Cây Sồi Các Thầy Bói mà đến.\” 38 Bấy giờ ông Dơ-vun nói với ông : \”Đâu rồi cái miệng ngươi từng nói : A-vi-me-léc là ai mà chúng ta làm tôi nó ? Đây chẳng phải là đám dân ngươi đã khinh dể sao ? Bây giờ ngươi hãy đi ra mà giao chiến với nó.\” 39 Ông Ga-an đi ra, dẫn đầu các thân hào Si-khem, giao chiến với A-vi-me-léc. 40 Nhưng A-vi-me-léc đuổi đánh ông, và ông Ga-an phải trốn chạy. Nhiều người gục chết trước khi tới được lối vào cổng. 41 Sau đó A-vi-me-léc cư ngụ ở A-ru-ma ; còn ông Dơ-vun thì trục xuất ông Ga-an và anh em ông, không cho ở Si-khem nữa.

42 Hôm sau đám người kia đi ra cánh đồng, và người ta báo cho A-vi-me-léc biết. 43 Ông lấy dân của mình chia thành ba nhóm và sắp xếp một cuộc mai phục ngoài đồng. Ông nhìn, và này đám người kia đi ra khỏi thành ; ông chỗi dậy tiến đánh chúng tơi bời. 44 A-vi-me-léc cùng với quân lính của ông ập tới chặn lối vào cổng thành, còn hai nhóm kia thì ập tới tất cả những kẻ ở ngoài đồng và đánh chúng tơi bời. 45 Suốt ngày hôm ấy A-vi-me-léc tấn công thành. Ông đã chiếm được thành và tàn sát tất cả dân cư, rồi triệt hạ và rắc muối lên thành. 46 Nghe tin đó, các thân hào Mích-đan Si-khem liền xuống hầm đền thờ En Bơ-rít. 47 Người ta báo tin cho A-vi-me-léc biết là tất cả thân hào Mích-đan Si-khem đã họp nhau lại. 48 Bấy giờ A-vi-me-léc lên núi Xan-môn cùng với tất cả quân lính của ông. Ông cầm rìu chặt một cành cây, giơ lên, rồi đặt xuống vai mình, và nói với quân lính của ông : \”Các anh thấy tôi làm gì, thì cứ làm như tôi, mau lên !\” 49 Mọi người đều chặt, mỗi người một cành cây. Họ đi theo A-vi-me-léc, đặt cành cây trên hầm, rồi nổi lửa đốt hầm, làm cho mọi người ở Mích-đan Si-khem chết hết, khoảng chừng một ngàn người, cả đàn ông lẫn đàn bà.

50 Sau đó A-vi-me-léc đi đến Tê-vết, đóng trại đối diện với Tê-vết và chiếm thành ấy. 51 Có một ngọn tháp kiên cố ở giữa thành và tất cả đàn ông, đàn bà cùng toàn thể các thân hào trong thành đều trốn vào tháp ấy ; họ ẩn náu bên trong và leo lên lầu của ngọn tháp. 52 A-vi-me-léc đi tới và tấn công tháp ; ông đến sát lối vào tháp để châm lửa đốt. 53 Bấy giờ một người đàn bà liệng một phiến đá cối xuống đầu A-vi-me-léc làm ông bể sọ. 54 Ông liền gọi chàng thanh niên cận vệ của mình và bảo : \”Hãy tuốt gươm giết ta đi, kẻo người ta lại nói về ta rằng : Một người đàn bà đã giết hắn.\” Người cận vệ đâm ông, và ông đã chết. 55 Người Ít-ra-en thấy A-vi-me-léc đã chết thì bỏ đi, ai nấy về nhà mình.

56 Thế là Thiên Chúa đã báo oán A-vi-me-léc vì sự dữ ông đã gây cho thân phụ mình là giết bảy mươi người anh em. 57 Và Thiên Chúa đã báo oán những người Si-khem vì tất cả sự dữ họ đã gây ra. Như thế là đã ứng nghiệm nơi họ lời chúc dữ của Giô-tham, con ông Giơ-rúp-ba-an.

CHƯƠNG 10

1 Sau A-vi-me-léc, có ông Tô-la con ông Pu-a, cháu ông Đô-đô, người Ít-xa-kha, đã xuất hiện để cứu Ít-ra-en. Ông cư ngụ tại Sa-mia, vùng núi Ép-ra-im. 2 Ông làm thủ lãnh Ít-ra-en được hai mươi ba năm, thì qua đời và được chôn cất tại Sa-mia.

3 Sau ông Tô-la, thì có ông Gia-ia, người Ga-la-át, xuất hiện, làm thủ lãnh Ít-ra-en hai mươi hai năm. 4 Ông có ba mươi người con, cỡi ba mươi con lừa và coi ba mươi thành, mà người ta đặt tên là Kha-vốt Gia-ia ; những thành đó còn cho tới ngày nay trong đất Ga-la-át.

5 Rồi ông Gia-ia qua đời và được chôn cất tại Ca-môn.

6 Con cái Ít-ra-en lại làm điều dữ trái mắt ĐỨC CHÚA và làm tôi các thần Ba-an và Át-tô-rét, các thần của người A-ram, các thần của người Xi-đôn, các thần của người Mô-áp, các thần của con cái Am-mon và các thần của người Phi-li-tinh ; họ đã lìa bỏ ĐỨC CHÚA và không làm tôi Người nữa. 7 ĐỨC CHÚA nổi cơn thịnh nộ với Ít-ra-en và đã trao họ vào tay người Phi-li-tinh và vào tay con cái Am-mon. 8 Trong thời ấy, suốt mười tám năm, chúng hành hạ và áp bức con cái Ít-ra-en, tức là toàn thể con cái Ít-ra-en ở bên kia sông Gio-đan, trong đất người E-mô-ri tại Ga-la-át. 9 Con cái Am-mon vượt sông Gio-đan để giao chiến với cả Giu-đa, Ben-gia-min và nhà Ép-ra-im nữa, khiến Ít-ra-en phải lâm cảnh khốn cùng. 10 Bấy giờ con cái Ít-ra-en mới kêu lên ĐỨC CHÚA rằng : \”Chúng con đã xúc phạm đến Ngài, bởi vì chúng con đã lìa bỏ Thiên Chúa của chúng con mà làm tôi các Ba-an.\” 11 ĐỨC CHÚA phán với con cái Ít-ra-en : \”Khi người Ai-cập, người E-mô-ri, con cái Am-mon, người Phi-li-tinh, 12 người Xi-đôn, người A-ma-lếch và người Ma-đi-an áp bức các ngươi, và các ngươi kêu lên Ta, thì Ta đã chẳng cứu các ngươi khỏi tay chúng sao ? 13 Nhưng các ngươi đã lìa bỏ Ta và làm tôi các thần khác ; vì thế, Ta sẽ không cứu các ngươi nữa. 14 Đi mà kêu lên các thần các ngươi đã chọn ; chúng sẽ cứu các ngươi lúc các ngươi bị cơ cực !\” 15 Con cái Ít-ra-en mới thưa cùng ĐỨC CHÚA : \”Chúng con đã phạm tội. Xin Ngài cứ xử với chúng con sao cho đẹp mắt Ngài ; nhưng hôm nay xin cứu chúng con.\” 16 Họ cất bỏ, không giữ lại những thần ngoại bang nữa, và họ làm tôi ĐỨC CHÚA, vì thế Người không dằn lòng được trước sự đau khổ của Ít-ra-en.

17 Con cái Am-mon tập họp lại và đóng trại ở Ga-la-át. Con cái Ít-ra-en cũng hội lại và đóng trại ở Mít-pa. 18 Dân chúng và các thủ lãnh Ga-la-át nói với nhau : \”Ai là người sẽ xung phong giao chiến với con cái Am-mon ? Người ấy sẽ đứng đầu toàn thể dân cư Ga-la-át.\”

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *